Phim Việt có tài tử Hàn Quốc Jung Il-woo thu 22 tỷ đồng sau 2 ngày chiếu sớm
Phim điện ảnh hợp tác Việt - Hàn "Mang mẹ đi bỏ" có tài tử xứ Hàn Jung Il-woo tham gia chính thức khởi chiếu từ ngày 1/8/2025.
Tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2025 thực hiện nghị quyết 57, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu có “chính sách đãi ngộ đặc biệt” (vượt khung lương, nhà ở, môi trường làm việc) để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước.
Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 20/7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nhanh chóng hoàn thiện cơ chế đón 100 chuyên gia trong và ngoài nước ngay trong tháng 8/2025 với chế độ đãi ngộ vượt trội.
Hàng loạt đạo luật đột phá cho phát triển KHCN, đặt nền móng cho cơ chế thu hút nhân tài và vị thế đặc biệt của “tổng công trình sư” trong hệ thống Khoa học Công nghệ quốc gia cũng đã được thông qua tại Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XV.
Nhân đây, báo Dân Việt có cuộc phỏng vấn với kỹ sư Data (Dữ liệu) và AI (Trí tuệ nhân tạo) Trần Minh Việt, người mới trở về Việt Nam bắt đầu hành trình mới sau nhiều năm học tập và làm việc ở Singapore và Mỹ.
Thưa ông Trần Minh Việt, theo ông, Việt Nam hiện đang ở đâu trên bản đồ về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số?
- Việt Nam vốn là một đất nước có rất nhiều tiềm năng về khoa học công nghệ, đặc biệt nếu xét về yếu tố nhân tài. Nhưng thẳng thắn mà nói nước ta vẫn bị tụt hậu so với thế giới khi so sánh về mặt thành tựu kỹ thuật và đổi mới sáng tạo.
Chúng ta là nước đông dân thứ 16 trên thế giới, lại có truyền thống chăm chỉ, hiếu học, đào tạo ra hàng trăm nghìn cử nhân mỗi năm, nhưng không có trường đại học nào lọt Top 100 toàn cầu về chất lượng giáo dục cũng như kết quả nghiên cứu khoa học. Người Việt Nam luôn có ý chí kinh doanh và làm giàu, lại có lực lượng kỹ sư phần mềm nội địa dồi dào về cả chất lượng lẫn số lượng, nhưng số công ty công nghệ đạt ngưỡng “kỳ lân” chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Chỉ cần làm một vài thống kê đơn giản cũng thấy được nhu cầu cấp bách cần cải cách cơ chế, chính sách đãi ngộ nhân tài, đầu tư công nghệ; vừa là động lực cho sự khát khao vươn mình của thế hệ 8x, 9x và Gen Z.
Hy vọng rằng những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà sẽ hội tụ trong thời điểm quyết định, giúp cho đất nước “đi tắt đón đầu” và đạt nhiều thành tựu bứt phá trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này.
Ông đánh giá thế nào về mức độ sẵn sàng của Việt Nam trong việc đón nhận và giữ chân các chuyên gia trình độ cao?
- Đất nước ta đang trong một giai đoạn chuyển mình lịch sử, đó là điều có thể thấy rõ. Từ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đến phát triển 11 nhóm công nghệ chiến lược, các chủ trương của Đảng và Chính phủ đang tạo ra những cơ hội hiếm có cho các doanh nghiệp trong nước.
Giữa bối cảnh địa chính trị trên thế giới có nhiều biến động, sự ổn định và phát triển của xã hội Việt Nam đang tạo nên một thời cơ rất lớn để thu hút các nhân tài về đóng góp cho đất nước.
Những rào cản, khó khăn chính nào thời gian qua khiến nhiều chuyên gia người Việt ở nước ngoài còn e ngại trở về làm việc lâu dài, thưa ông?
- Từ góc nhìn của người Việt xa quê hương đã lâu, tôi nghĩ có 3 rào cản chính đang ngăn cản nguồn nhân tài quay lại Việt Nam để định cư, xây dựng sự nghiệp.
Một là hiện tượng sốc văn hoá ngược - những chuyên gia cấp cao người Việt nhìn chung đều đã dành ít nhất 10-15 năm học tập, làm việc, sinh sống trong xã hội nước ngoài. Điều này khiến họ quan ngại về khả năng tái hoà nhập với cuộc sống và môi trường làm việc ở Việt Nam khi trở về nước.
Kỹ sư AI Trần Minh Việt từng có khoảng thời gian dài làm việc ở Mỹ.
Hai là điều kiện đãi ngộ - những quy định nhân sự về mặt lương, thưởng, và các đãi ngộ khác ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá thấp và cứng nhắc. Nếu so sánh với mức lương gấp 3-5 lần mà các chuyên gia người Việt nhận được ở Mỹ, Châu Âu, hoặc Bắc Á, thì bài toán lợi ích cá nhân rất khó có lời giải thoả đáng.
Ba là chất lượng cuộc sống, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường và không khí. Là một người gốc Hà Nội, bản thân tôi đã từng rất sốc mỗi lần quay lại Thủ đô, vì sự tương phản quá rõ giữa bầu trời trong xanh trong ở những vùng đất khác và bầu trời xám xịt khói bụi, che lấp mặt trời ở đây. Với những chuyên gia đã có gia đình và đặc biệt là con cái, đây là một mối quan ngại cực kỳ lớn.
Chính sách đãi ngộ với chuyên gia cao cấp tại Việt Nam trước đây chưa có gì chưa hấp dẫn, tương xứng, liệu “cứng nhắc về thủ tục hành chính” hay môi trường làm việc có phải là yếu tố khiến chuyên gia khó hội nhập?
- Đây đúng là một vấn đề rất nan giải, vì câu chuyện đãi ngộ đối với các chuyên gia từ nước ngoài trở về Việt Nam làm việc không chỉ đơn thuần dừng lại ở con số lương thưởng.
Đó còn là yêu cầu phải thay đổi các quy định hành chính, thủ tục giấy tờ và văn hoá làm việc của từng tổ chức, từng doanh nghiệp, để tạo ra một môi trường làm việc linh hoạt và năng động.
Việc Đảng và Chính phủ đưa ra chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài về nước là điều thiết yếu, nhưng mỗi đơn vị cần nỗ lực tìm ra kế hoạch triển khai riêng để phù hợp với thực tế của công ty. Phải làm sao để vừa đảm bảo sức hấp dẫn với các chuyên gia, vừa đảm bảo được sự cân bằng với những người lao động trong nước.
Theo ông, cần có những đãi ngộ đặc biệt nào để “xứng tầm” với trình độ và kỳ vọng của các chuyên gia người Việt đang ở nước ngoài trở về. Có nên thiết kế chính sách thu hút theo hướng “trải thảm đỏ” toàn diện hay nên chọn lọc theo từng lĩnh vực/lứa tuổi?
Để tạo ra sức hút đủ mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng một gói phúc lợi và cơ hội toàn diện, hướng vào khát vọng cống hiến của các chuyên gia. Một đặc điểm chung của những chuyên gia đầu ngành là ý thức sở hữu, tự mình làm chủ trong công việc. Họ coi những công trình tâm huyết của mình như những đứa con, và đây là chìa khóa dẫn tới sự thành công trong sự nghiệp của họ.
Vậy nên, để thu hút và giữ chân được nhân tài, các doanh nghiệp nên triển khai các gói cổ phiếu ưu đãi như ESOP hoặc RSU để trao cho chuyên gia một phần sở hữu trong công ty và gắn kết lợi ích của họ với sự thành công dài hạn của tổ chức.
Theo ông, mục tiêu thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước có khả thi không?
- Việt Nam vốn có nhiều nhân tài, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học công nghệ, nên tôi nghĩ mục tiêu thu hút 100 chuyên gia hàng đầu về nước là một điều hoàn toàn khả thi. Sau chỉ đạo của Tổng Bí Thư, mong Chính phủ và các Doanh nghiệp, Tập đoàn nhanh chóng triển khai quyết liệt các phương án thực thi chủ trương trên.
Thiết nghĩ, đây cũng là một cách để chứng minh cho thế giới sự quyết tâm bứt phá của cả dân tộc ta, để Việt Nam có thể “sánh vai các cường quốc năm châu” như lời Bác dạy.
Những lĩnh vực công nghệ nào Việt Nam cần ưu tiên thu hút chuyên gia ngay lúc này (AI, bán dẫn, an toàn dữ liệu, blockchain, chuyển đổi số…)?
Sau gần 3 năm từ ngày ChatGPT ra mắt, thực tế đã chứng minh xu hướng AI không chỉ là một làn sóng mà là một cơn đại hồng thuỷ với sức cuốn vĩ đại. Nó vừa hứa hẹn rất nhiều cơ hội mới, nhưng cũng mang đến những đe dọa tiềm ẩn về trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Vì vậy, tôi nghĩ Việt Nam cần chú trọng đầu tư, phát triển, và thu hút nhân tài trong lĩnh vực này, để đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như sự ổn định của xã hội trong kỷ nguyên AI.
Nhưng để có thể ứng dụng AI một cách hiệu quả, trước tiên chúng ta phải làm tốt công tác chuyển đổi số. Giữa sự cạnh tranh toàn cầu, chuyển đổi số ngày càng trở nên quan trọng trong tất cả các lĩnh vực: từ văn hóa, giáo dục khoa học, y tế, kinh tế…
Chuyển đổi số thành công không chỉ giúp doanh nghiệp tăng năng suất và lợi nhuận, mà còn tạo ra sự thay đổi căn bản trong phương thức lãnh đạo và văn hóa làm việc trong công ty. Khi các quy trình và dữ liệu đã được số hoá, lộ trình triển khai AI ắt sẽ rộng mở!
Những mô hình nào trên thế giới có thể là hình mẫu cho Việt Nam trong bài toán nhân tài?
- Trên thế giới, nhiều quốc gia đã thành công trong việc biến "chảy máu chất xám" thành "vốn quý chất xám" thông qua các chiến lược thu hút nhân tài kiều bào một cách bài bản và toàn diện.
Các ví dụ điển hình như Trung Quốc, Israel, hay Đài Loan đều chú trọng việc kết hợp những chính sách ưu đãi chiến lược của chính phủ (về thuế thu nhập, thị thực lao động, và tài trợ R&D) với việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động để tạo ra môi trường làm việc đẳng cấp.
Chìa khóa thành công nằm ở việc triển khai một chiến lược toàn diện, không chỉ đơn thuần tập trung vào các ưu đãi “cứng” mà còn chủ động phát huy tinh thần dân tộc và vai trò cầu nối của các mạng lưới trí thức kiều bào trên toàn thế giới.
Một vấn đề đáng quan tâm là làm sao không chỉ thu hút mà còn phải giữ chân được chuyên gia trong dài hạn? Quan điểm của ông thế nào về việc Việt Nam nên xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đủ hấp dẫn như Silicon Valley thu nhỏ?
- Việc xây dựng một hệ sinh thái và chuỗi cung ứng khoa học kỹ thuật hoàn thiện là điều kiện tiên quyết, không chỉ để thu hút và giữ chân nhân tài, mà còn quyết định sự thành bại của nền kinh tế số nước nhà.
Tuy vậy, chúng ta không thể theo đuổi mô hình Silicon Valley một cách mù quáng. Silicon Valley vốn là cái nôi của công nghệ số, sau 7 thập kỷ phát triển mạnh mẽ dưới sự hậu thuẫn của cường quốc số 1 thế giới, giờ đây đã trở thành trụ sở của hầu hết các tập đoàn công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm hàng đầu.
Mỗi năm, tổng lượng vốn đầu tư vào thung lũng này lên tới hàng trăm tỷ đô la. Những điều kiện thuận lợi như vậy sẽ không có ở Việt Nam, vậy nên chúng ta không thể “rập khuôn” theo mô hình của họ được.
Kỹ sư AI Trần Minh Việt khi còn làm việc tại Công ty Pager Health (Mỹ).
Việc chúng ta cần làm là chọn lọc ra những bài học từ các mô hình thành công trên thế giới, không chỉ ở Silicon Valley mà còn từ Thâm Quyến, Hàn Quốc, Đài Loan, v.v. và áp dụng những gì phù hợp với đặc điểm địa chính trị, xã hội, và nguồn lực của nước nhà.
Việc thu hút nhân tài Việt Nam từ khắp nới trên thế giới trở về nước cũng chính là để phục vụ mục đích này. Khi họ gặp được những doanh nhân có tâm, có tầm, những “minh quân” có tầm nhìn chiến lược và quyết tâm đổi mới, ắt sẽ tạo ra sự gắn bó và cống hiến lâu dài.
Ông là một trong những người thuộc lớp trẻ quay trở về Việt Nam, đã từ bỏ công việc tại Mỹ và quay trở lại quê hương lập nghiệp. Ông có thể chia sẻ về điều này?
- Thực sự tôi chỉ là một trong số rất nhiều người Việt hồi hương đã nhận ra và nắm bắt những cơ hội mới trong thời điểm chuyển mình này của đất nước.
Sau khi về nước giữa đại dịch Covid năm 2020, tôi đã có một giai đoạn tái hoà nhập khá dài để tìm hiểu lại văn hoá và cuộc sống Việt Nam một cách chậm rãi và cẩn thận.
Thời gian này giúp tôi tránh được hiện tượng sốc văn hoá ngược và xác nhận khả năng hòa nhập vào môi trường làm việc trong nước; từ đó có nền tảng vững chắc và sự tự tin để tìm kiếm một vị trí xứng đáng với kinh nghiệm, khả năng, và khát vọng cống hiến của tôi ở Việt Nam.
Kể từ trở về Việt Nam, công việc của ông ra sao thưa ông? Nếu có gửi gắm tới những tri thức, chuyên gia Việt kiều đang trăn trở việc về nước đóng góp, ông sẽ chia sẻ điều gì?
- Tôi quyết định nhận công tác ở Bamboo Airways vì bị thuyết phục bởi tầm nhìn chiến lược của Ban lãnh đạo công ty. Mục tiêu biến Bamboo Airways trở thành Hãng hàng không Số đầu tiên của Việt Nam vừa là thử thách, vừa là động lực rất lớn đối với tôi trong công việc. Mục tiêu ấy như một đỉnh núi cao, thách thức tôi mang hết những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm tích lũy của bản thân ra để chinh phục nó.
Với tôi, lựa chọn một môi trường làm việc không chỉ dựa trên quy mô hiện tại của tổ chức, mà quan trọng hơn là nhìn thấy được tiềm năng phát triển trong dài hạn và giá trị mà tổ chức ấy đang theo đuổi.
Ở Bamboo Airways, tôi có thể thấy Hãng sở hữu một định hướng rất rõ ràng trong việc chuyển đổi số, tái cấu trúc, và ứng dụng AI để phát triển bền vững và bứt phá. Tôi tin rằng sự cống hiến không nhất thiết phải bắt đầu từ những nơi đã hoàn thiện. Đôi khi, được đồng hành cùng một tổ chức đang từng bước chuyển mình – với khát vọng rõ ràng và quyết tâm đổi mới – lại là cơ hội để tạo nên những giá trị sâu sắc và lâu dài hơn.
Điều
tôi nhìn nhận ở Bamboo Airways không chỉ là cơ hội nghề nghiệp cho bản thân, mà
còn là một dự án nhiều ý nghĩa và nhiều việc cần làm: làm thế nào để ứng dụng
công nghệ và tư duy quốc tế vào một lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và còn rất
nhiều dư địa phát triển tại Việt Nam như hàng không, qua đó đóng góp phần nào cho
sự phát triển chung của đất nước.
Đối với những người Việt đồng trang lứa ở nước ngoài, tôi mong rằng mỗi chúng ta dù ở đâu vẫn luôn hướng về Tổ quốc và tìm được cơ hội phù hợp cho riêng mình. Có rất nhiều câu chuyện thú vị đang chờ các bạn viết nên ở quê hương!
Xin cảm ơn ông!
Ông Trần Minh Việt sinh năm 1990, sinh ra tại Hà Nội. Ông từng du học ở
Raffles Institution, Singapore (2005-2009) theo diện học bổng A*STAR và ở
Franklin & Marshall College, Pennsylvania (2010-2014).
Tốt
nghiệp đại học với bằng Cử nhân CNTT trong lĩnh vực học máy, ông làm Kỹ
sư phần mềm sáng lập ở Công ty Agolo, TP New York (2014-2016). Quãng
thời gian tiếp theo, ông làm việc tại Công ty Pager Health trong 9 năm
(2016-2025), với vị trí cao nhất là Giám đốc kĩ thuật về Dữ liệu &
AI.
Tới năm 2025, sau 11 năm làm việc ở nước ngoài, ông Trần Minh
Việt quyết định trở về Việt Nam làm việc tại Bamboo Airways. Tháng 6
vừa qua, Bamboo Airways bổ nhiệm nhiều vị trí nhân sự lãnh đạo, trong đó
ông Trần Minh Việt phụ trách Ban Công nghệ thông tin.